Nội dung bài viết

Bệnh đục thủy tinh thể và những điều cần biết

Bản thủy tinh có thể là gì?

Đục thủy tinh thể (cục đá, cườm khô) là căn bệnh thường gặp ở người lớn tuổi. Thủy tinh có thể là một loại kính cường lực trong suốt, hai mặt lồi. Thủy tinh có thể là thành phần quan trọng giúp cho ánh sáng đi qua, giúp các tia sáng hội tụ đúng ở vùng nông thôn.

Công suất hội tụ của thể thủy tinh có vai trò quan trọng đối với hệ thống khúc xạ, giúp tiêu điểm ảnh hội tụ đúng trên ảo giác khi nhìn xa. Khả năng thay đổi độ dày của thể thủy tinh gọi là điều tiết có tác dụng giúp mắt nhìn rõ những vật ở gần.

Khi tình trạng trong suốt này mất đi, thể thủy tinh sẽ chuyển màu mờ và ánh sáng rất khó đi qua. Bệnh nhân bị suy giảm sức mạnh, tầm nhìn mờ và thậm chí có thể gây mù loà.

duc-thuy-tinh-the-1

Các tên gọi khác của bệnh đục thủy tinh bao gồm: Đục thủy tinh thể là tiếng Latin có nghĩa là thác nước để chỉ màu trắng của thủy tinh trong những trường hợp thủy tinh trắng, đây là danh từ chính thống dùng trong y văn quốc tế. Những danh từ không chính thống dân dân hay dùng là cườm khô,cườm đá, cườm hạt hay đục nhân mắt.

Bệnh thủy tinh có thể nguy hiểm và phổ biến?

Đục thể thủy tinh là nguyên nhân gây mù loà phổ biến nhất trên thế giới. Có khoảng 25 đến 50 triệu người trên toàn cầu có thị lực < 1/20 là do thể thủy tinh. Theo các nghiên cứu khoa học tại Framingham Eye Study tỷ lệ người mắc bệnh đục thủy tinh thể ở tuổi 55 đến 64 là 4,5%, tỷ lệ này tăng lên 18% ở độ tuổi 65 đến 74 tuổi và cao nhất ở tuổi từ 75 đến 84 là 45,9%.

Theo WHO (tổ chức y tế thế giới)tỷ lệ mù làm mờ thể thủy tinh tăng dần mỗi năm bất chấp những tiến bộ trong phép trị. Năm 2002 WHO ước tính mù làm mờ thủy tinh là hơn 17 triệu (47,8%) trong tổng số 37 triệu người mù trên toàn tế giới.

Con số này được dự đoán đến năm 2020 là 40 triệu và số ca khúc thuật thủy tinh phải tăng gấp 3 lần mới đáp ứng được. Đục thể thuỷ tinh được xem là yếu tố nguy cơ độc lập gây tăng tỉ lệ tử vong ở người lớn tuổi.

Tại Mỹ ước tính có gần 20,5 triệu trên 40 tuổi được đục thủy tinh (chiếm 1/6 số người trong độ tuổi này). Trong 2004 có khoảng 2,5 triệu ca bệnh đục thủy tinh ở Mỹ, đạt 8000 ca/1000.000 dân, trong khi đó ở Trung Quốc là 500 và các loại nước phát triển gần là khoảng 50.

Ở Đông Nam á mù do thủy tinh sử dụng 50% các loại mù. 50% người trên 60 đục thể thủy tinh và đạt đến 100% ở người trên 80. Nữ nhiều hơn nam.

Theo Viện Mắt trung ương Việt Nam 1995: Tỷ lệ mù mắt 1,18% hai mắt 1,25%, Tỷ lệ đục mắt 1,25%, Tỷ lệ đục thủy tinh thể thủy bộ hai mắt 3,76%, đục toàn bộ hai mắt 0,84%. Năm 2000 mù do đục thể thủy tinh sử dụng 60% các loại mù trong đó mà cụ thể thủy tinh 2 sử dụng 68,5%,nam sử dụng 59,3%.

Nguyên nhân đục thủy tinh thể và các yếu tố nguy cơ?

Hiện nay có rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh đục thủy tinh thể như: môi trường, đường sống, chế độ dinh dưỡng, di chuyển, chấn thương…Tuy nhiên, đục thủy tinh thể làm tuổi tác sử dụng tới 99%. Hiện tượng đục thể thủy hầu hết đều xuất hiện sau độ tuổi 60.

  • Tuổi tác : Khi con người già đi, những thay đổi có thể xảy ra trong cấu trúc protein thủy tinh có thể dẫn đến đục thủy tinh.
  • Bẩm sinh : Trẻ em mới sinh ra cũng có nguy cơ đục thủy tinh thể rối loạn si truyền. Ngoài ra bệnh cũng có thể phát triển do mẹ khi mang thai mắc các bệnh truyền nhiễm như bệnh sởi, bệnh sốt da và giang mai.
  • Các nguyên nhân thứ phát : Các căn bệnh như tăng nhãn áp, tiểu đường cũng có thể biến chứng thành thủy tinh. Dùng kéo dài một số thuốc như corticoid (nhỏ cũng như uống), thuốc hạ mỡ máu (simvastatin), thuốc chống loạn nhịp tim (amilodarone), thuốc trầm cảm (phenothiazin)… làm tăng nguy hiểm cơ thủy tinh.
  • Chấn thương : Một số chấn thương có thể dẫn đến hình thành thủy tinh ngay hoặc sau nhiều năm.
  • Các nguyên nhân khác: bao gồm mắt tiếp xúc quá nhiều với tia UV (tia cực tím), tia X và bức xạ khác trong lúc xạ trị.Ánh nắng mặt trời đã được chứng minh làm đục thể thủy gấp 2 đến 3 lần nhóm chứng và không thể xem là yếu tố phối hợp. Nghĩ dưỡng dưỡng, ỉa nhảy mất nước, thiếu hồng các yếu tố chống oxy hoá, hút thuốc, uống rượu cũng là những yếu tố phối hợp quan trọng.  

duc-thuy-tinh-the-2

Các dấu hiệu thủy tinh có thể là gì?

Giảm năng lực chứng chỉ cấp nhất. Thường là nhìn mờ cả hai bên cân bằng xứng đáng. Đục thủy tinh có thể ảnh hưởng tới tầm nhìn trung tâm, bắt đầu từ việc nhìn xa khi nhìn xa, sau đó tầm nhìn gần cũng bị ảnh hưởng trừ khi có thể đục đặc biệt là đục dưới bao sau thể thủy tinh.

Mức độ thị lực tùy thuộc vào tình trạng tiến triển của bệnh, ở giai đoạn đầu sẽ mất khoảng 1/10 thị lực, khi bệnh nặng nhất thì người bệnh chỉ được biết là nhẹ.

Cơ sở sản xuất có thể tạo ra khả năng tăng cường năng lượng của nó. Đây là lý do tại sao một số người già đã bị đục thủy tinh có thể đọc lại cảnh báo không cần đeo kính. Bên bờ đó có rất nhiều người bệnh tầm nhìn đôi, có nhiều vật một thời, hay tầm nhìn bị mờ như trong sương mù. Hiện tượng này làm thủy tinh có thể gây ra tia sáng phóng xạ đi qua nó.

Ở một số bệnh nhân khác có những triệu chứng lạ tai như ra ngoài sáng thì nhìn gần gũi nhưng vào trong nhà, ở bóng tối thì nhìn lại tốt hơn. Đó là những bệnh nhân đục thủy tinh trung tâm khi ra nắng, sáng thì đồng tử co nhỏ lại, ánh sáng tới được sa mạc đi quan đúng vùng trung tâm đục.

Khi trong điều kiện ít ánh sáng như trong nhà hay bóng Vằn, đồng tử sẽ giãn rộng hơn, làm điều đó ánh sáng dễ dàng đi qua vùng hạn chế thủy tinh chưa đậm đậm, khiến bệnh nhân thấy hình ảnh rõ ràng hơn. Với những bệnh nhân chỉ mủ mới ở vùng ngoại vi và vùng trung tâm còn trong thì triệu chứng sẽ ngược lại.

Ngoài ra còn có một số triệu chứng khác như mắt nhìn có chấm đen, chấm bay trước mắt cũng có thể là dấu hiệu bệnh đục thủy tinh thể

Điều chỉnh giá trị thủy tinh thể

Bệnh thủy tinh có thể là một bệnh nguy hiểm, vì thế cần chữa trị kịp thời. Cho đến nay các loại thuốc tổng hợp hóa dược rất khó có thể làm được trong thủy tinh có thể quay trở lại.

Với những trường hợp đục thủy tinh thể giai đoạn đầu chưa cần thiết phải dê thuật, các bác sĩ sẽ chọn bổ sung một số vitamin như C, A, E… và một số chất hoạt tính khác để làm chậm quá trình đục thủy tinh thể. Tăng cường ánh sáng trong nhà, tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời, khói bụi.

Nếu bắt buộc thường xuyên xuyên ra ngoài nên có những biện pháp bảo vệ mắt như đeo kính nhện hoặc đội mũ rộng. Bờ cạnh đó cần có một lối sống hợp lý, không hút thuốc lá. Bổ sung vitamin C, E, A, lutein, kẽm zeaxanthin có trong rau xanh, bột ngũ cốc, trái cây, cá…Hạn chế ăn thức ăn chiên xào, nhiều dầu mỡ, hạn chế ăn đồ ngọt

Hiện nay phương pháp điều trị đục thủy tinh thể hiệu quả nhất vẫn là kỹ thuật. Phương pháp giải thuật đã tồn tại gần hai thế kỷ, nhưng đặt kính nội nhãn là phương pháp mới, được đề ra từ năm 1949.

Lĩnh vực kỹ thuật này đang được áp dụng những thành tựu mới của ngành nhãn khoa cũng như các khoa học hỗ trợ khác nên đã có những tiến bộ vượt bậc trong vòng 20 năm trở lại đây. Ngày nay phương pháp bảo vệ pháp thuật phacoemusification (kỹ thuật Bệnh Phaco ) ngày càng phổ biến và là phương pháp điều trị đục thủy tinh thể tốt nhất.

Để lại thông tin để được tư vấn miễn phí và hưởng các ưu đãi

Ưu điểm của nó là vết thương nhỏ, tốc độ phục hồi nhanh chóng, ít xảy ra biến chứng, bệnh nhân có thể nhanh chóng quay lại cuộc sống bình thường. Mặc dù các phaco hiện nay chỉ kéo dài khoảng 5 đến 10 phút nhưng thực tế y tế thủy tinh thể thủy tinh được phân loại vào nhóm đại dũng do nó là một chiến thuật nội nhãn và chiến động trực tiếp đến thị lực.

Một số câu hỏi thường gặp về bệnh đục thủy tinh thể

Xin chào bác sĩ, tôi đã đi khám và biết mình là bệnh đục thủy tinh thể, nhưng khi nào thì tôi có thể linh hoạt và cần khám phá thêm những gì?

(Bệnh nhân Trần Thành Nam, Q7, TpHCM)

Xin chào bạn, trước khi Chỉnh sửa thủy tinh có thể cần nghiên cứu khả năng giảm sức mạnh. Ngoài ra cần xác định rõ nguyên nhân chính gây suy giảm lực là đục thủy tinh thể.

Khi chữa bệnh các bác sĩ sẽ phải luôn cân bằng nhắc nhở có sự tương hợp hay không giữa tính chất và tốc độ thủy tinh với mức độ giảm năng lượng. Khi mắc chứng thủy tinh thể và thị lực kém hơn 4/10 bệnh nhân sẽ được bác sĩ cân nhắc kỹ thuật. 

Ngoài ra tuổi của bệnh nhân, điều kiện sống, tính chất công việc cũng ảnh hưởng tới việc quyết định khoa học thủy tinh thể. Như vậy cùng một sức mạnh nhưng có bệnh nhân được định nghĩa lại bằng bệnh nhân lại.

Bệnh đục thủy tinh ngoại trừ một số ít trường hợp đặc biệt (gây tăng nhãn áp, sa dao, chấn thương) thì không có yêu cầu khẩn cấp, bệnh hoàn toàn chủ động sắp xếp thời gian.

Tài chính cũng là một vấn đề cần được quan tâm và may mắn là chúng ta có nhiều loại thể thủy tinh nhân tạo với nhiều mức giá khác nhau để dễ dàng lựa chọn.

Bệnh nhân trước khi phẫu thuật thủy tinh có thể cần sức khỏe tổng quát. Điều này cần thiết để quyết định giải pháp, nâng cao năng lực sau phẫu thuật, giảm thiểu hình ảnh bằng chứng biến đổi.

Tại mắt chúng ta sẽ tìm những bệnh có liên quan như thoái hóa hoàng điểm người già, bệnh hoang mạc tiểu đường , cận cảnhbệnh tăng nhãn áp (cườm nước). Toàn thân chúng tôi cần phát hiện các bệnh nội khoa như: cao huyết áp, tiểu đường, nhiễm trùng…

Xin chào bác sĩ, ba tôi thích cường lực thủy tinh, bác sĩ cho hỏi kết quả của khoa học và sau khi khoa học có thể có một biến chứng gì?

(Chị Xuân Thư, Q.TB, TP.HCM)

Chào bạn Thư, nếu đục thủy tinh thể là nguyên nhân duy nhất tạo suy giảm thị lực thì khoảng 95% bệnh nhân sẽ có thị lực >5/10 sau thuật. Các tiến trình gần đây của thể thủy tinh nhân tạo đã giúp các bệnh nhân bị tật khúc xạ (cận, viễn tưởng, loạn) và đặc biệt những người đang đeo kính lão cũng không cần mang kính sau đục thuật thủy tinh nếu được đặt những thủy tinh nhân tạo thích hợp.

Điều đặc biệt này có ý nghĩa với những đối tượng cận cảnh nặng nề không thể cẩn thận bằng kỹ thuật cận thông thường (LASIK). Các biến chứng viêm nhiễm virus nhẹ nhàng và kiểm soát được.Biến chứng đau nhức sau đó được giải quyết bằng laser thủ thuật YAG mở bao sau.

Xin chào bác sĩ, tôi chuẩn bị đục thủy tinh thủy tinh, bác Sỹ cho hỏi Vấn thể đục thủy tinh có thể mắt sáng trong bau lâu, và sau Sau đó đục thủy tinh tôi bị bịt lại không?

(Bệnh nhân Hoàng Kim Tân, Thủ Đức, TP.HCM)

Sau đặc thuật, 95% bệnh nhân sẽ đạt thị lực >5/10. Có nhiều bệnh gây mờ hoặc mù mắt do vậy mắt sáng sau đục thủy tinh cũng có thể bị mờ lại vì những bệnh khác. Sơ đồ dưới đây được chọn từ trước ra sau các bộ phận có liên quan đến môi trường trong suốt và thần kinh thị giác bao gồm giác giác: giác mạc (5), thủy dịch (1), thủy tinh (2), dịch kính (3) và rảnh rỗi (4). Một trong các bộ phận này bị tổn hại đều ảnh hưởng đến thị lực.

đức-thuy-tinh-the

Riêng cá nhân đã có tính năng kỹ thuật thì sẽ không thể phát triển lại. Thuật ngữ “đục thể thủy tinh tái phát hiện” đã từng tồn tại tại là để chỉ tình trạng đục bao thể thủy tinh.

Bao này được sử dụng để cố định thủy tinh nhân tạo và sau một thời gian bị mất tính chất trong lúc gây giảm lực. May thay, vấn đề này đã được giải quyết đơn giản bằng thủ thuật chiếu laser YAG mở bảo sau.

Bệnh viện Mắt Sài Gòn

BS chuyên khoa II. Tăng Hồng Châu

TP HCM 27/09/2017

Chia sẻ: